Luật Nghĩa vụ quân sự là một đạo luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp những quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ của công dân, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội, nhà trường và gia đình trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Luật Nghĩa vụ quân sự đầu tiên của nước ta được ban hành năm 1960 gồm 8 chương, 42 điều. Từ đó đến nay đã qua 7 lần sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đất nước qua từng thời kỳ. Lần sửa đổi gần đây nhất, ngày 14 tháng 6 năm 2005 Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Nghĩa vụ quân sự.
Để giúp quý vị nắm được nội dung cơ bản của Luật Nghĩa vụ quân sự
Mục tìm hiểu kiến thức pháp luật kỳ này, Đồng chí Nguyễn Xuân Sơn – chính trị viên, Ban chỉ huy quân sự thành phố Vũng Tàu sẽ giới thiệu khái quát nội dung cơ bản của bộ Luật.
2. Nội dung cơ bản của Luật Nghĩa vụ quân sự
a) Đăng ký nghĩa vụ quân sự và chuẩn bị cho thanh niên phục vụ tại ngũ
Đăng ký nghĩa vụ quân sự:
Đăng ký nghĩa vụ quân sự được tiến hành tại nơi cư trú theo hai cấp: xã, phường, thị trấn và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, do Ban chỉ huy quân sự của các cấp đó phụ trách.
Để đảm bảo việc đăng ký nghĩa vụ được đầy đủ, chính xác, chặt chẽ,
Điều 59: của Luật quy định: Quân nhân dự bị và công dân sẵn sàng nhập ngũ, khi chuyển chỗ ở đến ở địa phương khác phải đến Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn và Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh để xóa tên trong sổ đăng ký; khi đến nơi ở mới, trong thời hạn bảy ngày, phải đến Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn và trong thời hạn mời ngày phải đến Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh để ghi tên vào sổ đăng ký.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, hiệu trưởng các nhà trường, người phụ trách các đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội và các đơn vị cơ sở khác phải thống kê quân nhân dự bị và công dân sẵn sàng nhập ngũ của cơ sở mình để báo cáo với Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Để việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, quản lý quân nhân dự bị được nghiêm túc, có hiệu quả, Luật còn giao trách nhiệm cho Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan Công an và các cơ quan hữu quan khác, trong khả năng phạm vi chức năng của mình, có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan quân sự cùng cấp trong việc thực hiện các quy định về quản lý công dân sẵn sàng nhập ngũ và quân nhân dự bị.
- Chuẩn bị cho thanh niên phục vụ tại ngũ:
Chuẩn bị cho thanh niên phục vụ tại ngũ là vấn đề rất quan trọng và phải chuẩn bị lâu dài. Luật nghĩa vụ quân sự chỉ đề cập đến giai đoạn chuẩn bị trực tiếp cho thanh niên trước khi đến tuổi nhập ngũ và trước khi nhập ngũ.
Điều 17: Luật Nghĩa vụ quân sự quy định: Công dân nam trước khi đến tuổi nhập ngũ và trước khi nhập ngũ, phải được huấn luyện theo chương trình quân sự phổ thông, bao gồm giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự, rèn luyện ý thức tổ chức, kỷ luật và rèn luyện thể lực.
Việc huấn luyện quân sự phổ thông cho học sinh ở các trường thuộc chương trình chính khóa; nội dung do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Việc huấn luyện quân sự phổ thông cho thanh niên không học ở các trường do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, thủ trưởng cơ quan nhà nước tổ chức; nội dung huấn luyện do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định.
Bộ trưởng Bộ quốc phòng cùng với người đứng đầu các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có liên quan chỉ đạo việc huấn luyện quân sự phổ thông. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong phạm vi chức năng của mình, chỉ đạo việc huấn luyện quân sự phổ thông cho thanh niên địa phương mình; các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện cho thanh niên làm việc ở cơ sở mình tham gia huấn luyện quân sự phổ thông.
b) Phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ
Điều 3 : Luật Nghĩa vụ quân sự quy định: công dân nam, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, nơi cư trú, có nghĩa vụ phục vụ tại ngũ trong Quân đội nhân dân Việt nam. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Do tính chất đặc biệt của hoạt động quân sự và đặc điểm thể chất của phụ nữ, cho nên Luật cũng quy định: công dân nữ có chuyên môn cần cho quân đội, trong thời bình phải đăng ký nghĩa vụ quân sự và được huấn luyện; nếu tình nguyện thì có thể được phục vụ tại ngũ. Trong thời chiến, theo quyết định của Chính phủ, công dân nữ được gọi nhập ngũ và đảm nhiệm công tác thích hợp.
Điều 12 đến Điều 16: Lứa tuổi gọi nhập ngũ được quy định từ đủ 18 đến hết 25 tuổi. Thời hạn phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan, binh sĩ thời bình là 18 tháng; với hạ sĩ quan chỉ huy, hạ sĩ quan binh sĩ chuyên môn kỹ thuật do quân đội đào tạo, hạ sĩ quan, binh sĩ trên tàu hải quân là 24 tháng. Khi cần thiết, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng được quyền giữ hạ sĩ quan và binh sĩ phục vụ tại ngũ thêm một thời gian không quá sáu tháng so với thời gian quy định. Việc tính thời điểm bắt đầu và kết thúc thời hạn phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định. Thời gian đào ngũ không được tính vào thời gian phục vụ tại ngũ.
Luật nghĩa vụ quân sự xác định: Công dân đang trong thời kỳ bị pháp luật hoặc Tòa án nhân dân tước quyền phục vụ trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hoặc đang bị giam giữ, bị cấm cư trú, bị quản chế đều không được làm nghĩa vụ quân sự.
c) Việc nhập ngũ, xuất ngũ
- Việc gọi nhập ngũ:
Điều 21: Hàng năm, việc gọi công dân nhập ngũ được tiến hành từ một đến hai lần. Thời gian gọi nhập ngũ và số lượng công dân nhập ngũ trong năm do Chính phủ quyết định. Việc gọi công dân nhập ngũ thường được tiến hành vào khoảng tháng 2, tháng 3 và tháng 8, tháng 9 hàng năm.
Theo quyết định của Uỷ ban nhân dân, chỉ huy trưởng quân sự huyện. quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh gọi từng công dân nhập ngũ. Lệnh gọi nhập ngũ phải được đưa trước 15 ngày. Với địa phương gặp thiên tai nặng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng được quyền điều chỉnh thời gian gọi công dân nhập ngũ cho địa phương đó. Người được lệnh nhập ngũ phải có mặt đúng thời gian và địa điểm ghi trong lệnh gọi nhập ngũ; nếu không thể đến đúng hạn, phải có giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân.
- Việc xuất ngũ:
Điều 32: Hạ sĩ quan và binh sĩ đã phục vụ tại ngũ đủ thời hạn quy định thì được xuất ngũ. Theo lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, người chỉ huy đơn vị từ cấp Trung đoàn và tương đương trở lên có trách nhiệm thực hiện xuất ngũ cho hạ sỹ quan, binh sỹ thuộc quyền.
Thời gian xuất ngũ của hạ sỹ quan, binh sỹ phải được thông báo trước một tháng cho quân nhân, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và đơn vị cơ sở, nơi quân nhân cư trú hoặc làm việc trước khi nhập ngũ. Người chỉ huy đơn vị cấp trung đoàn và tương đương trở lên phải tổ chức tiễn và đưa người được xuất ngũ về bàn giao cho Uỷ ban nhân dân địa phương đã giao quân. Uỷ ban nhân dân cấp huyện ở địa phương có trách nhiệm tiếp nhận hạ sĩ quan, binh sĩ về địa phương chu đáo, tạo điều kiện cho họ nhanh chóng ổn định đời sống.
Điều 35: Hạ sĩ quan, binh sĩ xuất ngũ khi về đến địa phương, trong thời hạn 15 ngày phải đến Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn và Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh để đăng ký vào ngạch dự bị.
d) Việc hoãn gọi nhập ngũ, miễn làm nghĩa vụ quân sự
Điều 29:
- Những công dân được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời bình:
Những người chưa đủ sức khoẻ phục vụ tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khoẻ;
Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi người khác trong gia đình không còn sức lao động hoặc chưa đến tuổi lao động;
Có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ;
Giáo viên, nhân viên y tế, thanh niên xung phong đang làm việc ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn; cán bộ, công chức, viên chức được điều động đến làm việc ở những vùng này;
Người đang nghiên cứu công trình khoa học cấp Nhà nước;
Người đang học ở các trường phổ thông, trường dạy nghề, trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học do Chính phủ quy định;
Người đi xây dựng vùng kinh tế mới trong 3 năm đầu.
Hàng năm, những trường hợp nói trên đều được kiểm tra, nếu không còn lý do tạm hoãn thì được gọi nhập ngũ. Tuy nhiên, Luật cũng quy định công dân thuộc diện được tạm hoãn gọi nhập ngũ, nếu tình nguyện thì có thể được tuyển chọn gọi nhập ngũ.
- Những công dân đợc miễn gọi nhập ngũ trong thời bình:
Con liệt sỹ, con của thương binh và bệnh binh hạng một;
Một người anh hoặc em trai là liệt sĩ;
Một con trai của thương binh hạng hai;
Thanh niên xung phong, cán bộ, công chức, viên chức, đã phục vụ từ 24 tháng trở lên ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo có nhiều khó khăn do Chính phủ quy định;
Điều 30: Người tàn tật, người mắc bệnh tâm thần và mãn tính khác theo danh mục bệnh tật do Bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định thì được miễn làm nghĩa vụ quân sự.
Điều 31: Việc hoãn gọi nhập ngũ và miễn làm nghĩa vụ quân sự trong các trường hợp trên đây do Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh quyết định và danh sách phải được công bố. Trong trường hợp những người này tình nguyện thì có thể được tuyển chọn và gọi nhập ngũ.
đ) Nghĩa vụ và quyền lợi của quân nhân tại ngũ
Điều 49:
- Nghĩa vụ của quân nhân tại ngũ:
Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, kiên quyết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.
Gương mẫu chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ của quân đội.
Ra sức học tập chính trị, quân sự, văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ, rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật và thể lực, không ngừng nâng cao bản lĩnh chiến đấu.
- Quyền lợi của quân nhân tại ngũ:
Quyền lợi đối với hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ
Được bảo đảm cung cấp kịp thời, đủ số lượng, đúng chất lượng về lương thực, thực phẩm, quân trang, thuốc chữa bệnh, được đảm bảo chỗ ở, phụ cấp hàng tháng và nhu cầu văn hóa, tinh thần phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của quân đội theo chế độ, tiêu chuẩn, định lượng được quy định.
Từ năm thứ hai trở đi được nghỉ phép theo quy định; từ tháng thứ mời chín trở đi được hưởng thêm 200% phụ cấp quân hàm hiện hưởng hàng tháng, từ tháng hai mươi lăm trở đi được hưởng thêm 250% phụ cấp quân hàm hiện hưởng hàng tháng. Được tính nhân khẩu ở gia đình khi gia đình được cấp hoặc điều chỉnh diện tích nhà ở, đất xây dựng hoặc canh tác; được tính thời gian phục vụ tại ngũ vào thời gian công tác.
Khi xuất ngũ được cấp tiền tàu xe, phụ cấp đi đường, được hưởng trợ cấp xuất ngũ, trợ cấp tạo việc làm do Chính phủ quy định. Từ khi đăng ký vào ngạch dự bị thì được miễn làm nghĩa vụ lao động công ích.
Quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự khi xuất ngũ trở về địa phương được chính quyền các cấp giải quyết ưu tiên trong tuyển sinh, tuyển dụng hoặc sắp xếp việc làm; được vào học tại các trường đã trúng tuyển trước khi nhập ngũ.
Điều 54: - Quyền lợi đối với gia đình quân nhân tại ngũ:
Bố, mẹ hoặc vợ được tạm miễn tham gia lao động công ích khi gặp khó khăn và được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận.
Bố, mẹ, vợ và con được hưởng chế độ trợ cấp khó khăn đột xuất theo chính sách chung của Nhà nước; được miễn viện phí khi khám bệnh và chữa bệnh tại các bệnh viện của Nhà nước.