Đơn Thư Khiếu Nại Của Công Dân Đơn Thư Khiếu Nại Của Công Dân
Người khiếu nạiông Nguyễn Văn Minh đại diện 121 hộ dân thôn 12, xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu
Địa chỉThôn 12, xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu
Ngày nhận22/04/2016
Lĩnh vực khiếu nạiLĩnh vực đất đai
Tiêu đề khiếu nạiPhản ánh về việc UBND thành phố Vũng Tàu áp dụng chưa đúng quy định pháp luật để bồi thường, hỗ trợ dự án Khu Tổ hợp Hóa dầu Miền Nam tại xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu
Mô tả khiếu nại1. Đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư, thửa đất có nhà ở riêng lẻ phải được xác định là vị trí 1 của từng khu vực theo khoản 7, Điều 8, Quyết định 50/QĐ-UBND ngày 19/12/2013 của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 2. Về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo quy định tại Điều 22, Nghị định 69/NĐ-CP ngày 13/8/2009: Các hộ dân đề nghị ngoài việc đã được hỗ trợ 50% giá trị đất ở thì các thửa đất còn lại (ngoài phần đất đã được hỗ trợ 50% giá trị đất ở) được tính hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm 1,5 lần giá đất nông nghiệp.
Trạng tháiĐã xử lý
Ý kiến xử lý

Sau khi xem xét và trên cơ sở các quy định của pháp luật có liên quan, UBND thành phố Vũng Tàu có ý kiến trả lời các nội dung trên như sau: 

1. Đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư, thửa đất có nhà ở riêng lẻ phải được xác định là vị trí 1 của từng khu vực theo khoản 7, Điều 8, Quyết định 50/QĐ-UBND ngày 19/12/2013 của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: 

Căn cứ để xác định vị trí, khu vực đối với đất nông nghiệp bị thu hồi của các hộ thuộc dự án Khu Tổ hợp Hóa dầu Miền Nam, tại xã Long Sơn được áp dụng theo quy định tại Điều 1, Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 50/2013/QĐ-UBND ngày 19/12/2013 của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Cụ thể như sau: 

“Điều 1. Đất nông nghiệp

1. Cách xác định vị trí đất nông nghiệp:

Đối với đất nông nghiệp tại khu vực nông thôn, cách xác định khu vực, vị trí (khoảng cách từng vị trí) tương tự như cách xác định khu vực, vị trí đất ở tại khu vực nông thôn quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 2 Quy định này. 

* Riêng đất làm muối được xác định theo 03 vị trí như sau:

- Vị trí 1: 500 m đầu kể từ đường giao thông chính;

- Vị trí 2: Sau mét thứ 500 của vị trí 1 đến mét thứ 1.000 tính từ đường giao thông chính hoặc 500m đầu tính từ đường liên thôn, liên xã;

- Vị trí 3: Các vị trí còn lại không thuộc 02 vị trí nêu trên. 

Theo khoản 7, Điều 8, Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 50/2013/QĐ-UBND ngày 19/12/2013 của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có quy định: 

          “Điều 8. Xử lý về giá một số trường hợp cụ thể:... 

          7. Đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở nhưng không được xác định là đất ở; Đất nông nghiệp nằm trong phạm vi địa giới hành chính phường, trong phạm vi khu dân cư thị trấn, khu dân cư nông thôn đã được xác định ranh giới theo quy hoạch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt (trường hợp đất nông nghiệp nằm trong phạm vi khu dân cư thị trấn, khu dân cư nông thôn chưa có quy hoạch được xét duyệt thì xác định theo ranh giới của thửa đất có nhà ở ngoài cùng của khu dân cư) được xác định là giá đất vị trí 1 của từng khu vực”. 

Như vậy, khoản 7, Điều 8, Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 50/2013/QĐ-UBND ngày 19/12/2013 của UBND Tỉnh vừa nêu đã quy định rõ: các trường hợp cụ thể này được áp dụng để xác định về giá đất (theo Bảng giá các loại đất được ban hành kèm theo Quyết định số 50/2013/QĐ-UBND của UBND Tỉnh nêu ở trên), không áp dụng để xác định vị trí, khu vực của thửa đất.

 Đối với dự án Khu Tổ hợp Hóa dầu Miền Nam, tại xã Long Sơn, để nhằm hạn chế những khó khăn, thiệt hại và ổn định đời sống cho các hộ dân có đất bị thu hồi thuộc dự án, UBND Thành phố đã kiến nghị và được UBND tỉnh chấp thuận cho khảo sát giá đất theo giá thị trường; về giá đất để tính bồi thường được áp dụng theo bảng giá đất đã được khảo sát cụ thể tại Quyết định số 841/QĐ-UBND ngày 09/5/2012 của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, không áp dụng giá đất bồi thường quy định tại Quyết định số 50/2013/QĐ-UBND ngày 19/12/2013 của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 

Do đó, việc các hộ dân kiến nghị được xác định đất nông nghiệp bị thu hồi là vị trí 1 của từng khu vực để tính bồi thường như nêu trên là không có cơ sở để xem xét, giải quyết.

 2. Về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo quy định tại Điều 22, Nghị định số 69/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ: Các hộ dân đề nghị ngoài việc đã được hỗ trợ 50% giá trị đất ở thì các thửa đất còn lại (ngoài phần đất đã được hỗ trợ 50% giá trị đất ở) được tính hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm 1,5 lần giá đất nông nghiệp: 

          Theo quy định tại Điều 21, Điều 22 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ đã nêu rõ:

 

          “Điều 21. Hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất vườn, ao không được công nhận là đất ở

           1. Hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở trong khu dân cư nhưng không được công nhận là đất ở; đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở riêng lẻ; đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở dọc kênh mương và dọc tuyến đường giao thông thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp trồng cây lâu năm còn được hỗ trợ bằng 30% - 70% giá đất ở của thửa đất đó; diện tích được hỗ trợ không quá 05 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương... 

          Điều 22. Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm

          1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại Điều 21 Nghị định này mà không có đất để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền quy định tại khoản 1 Điều 16 Nghị định này còn được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo một trong các hình thức bằng tiền hoặc bằng đất ở hoặc nhà ở hoặc đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp như sau: 

          a) Hỗ trợ bằng tiền từ 1,5 đến 5 lần giá đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi; diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương…” 

Như vậy, theo quy định tại Điều 21, Điều 22 nêu trên thì những đối tượng đã được xem xét áp dụng các khoản hỗ trợ theo Điều 21 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ thì sẽ không xem xét áp dụng Điều 22. Việc xem xét xác định áp dụng tính hỗ trợ là hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất; Không áp dụng đối với từng thửa đất bị thu hồi. 

Bên cạnh đó, tại khoản 1, Điều 22 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ đã nêu rõ: “Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại Điều 21 Nghị định này mà không có đất để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền quy định tại khoản 1 Điều 16 Nghị định này còn được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo một trong các hình thức bằng tiền hoặc bằng đất ở hoặc nhà ở hoặc đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp như sau: …” 

Do đó, việc hỗ trợ theo quy định tại Điều 22, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ (cụ thể tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu áp dụng mức hỗ trợ là 1,5 lần giá đất nông nghiệp) là không áp dụng đối với các trường hợp đã được hỗ trợ theo quy định tại Điều 21 của Nghị định này.

Như vậy, UBND thành phố Vũng Tàu đã áp dụng đúng và đủ các chính sách hỗ trợ trong việc phê duyệt bồi thường, hỗ trợ đối với các hộ thuộc dự án Khu Tổ hợp Hóa dầu Miền Nam, tại xã Long Sơn đúng theo các quy định tại Điều 21, Điều 22, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ. Việc các hộ dân kiến nghị ngoài việc đã được hỗ trợ 50% giá trị đất ở (theo Điều 21 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP) thì các thửa đất còn lại được tính hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm 1,5 lần giá đất nông nghiệp (theo Điều 22, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP) là không có cơ sở để xem xét, giải quyết. 

UBND thành phố Vũng Tàu trả lời các nội dung kiến nghị như trên để tập thể các hộ dân xã Long Sơn được biết, thực hiện